Cuộc đời giáo viên của tôi, trải 56 năm; từng dạy học và quản lí nhà trường, rồi chỉ đạo chuyên môn ở Phòng Phổ thông của Sở giáo dục – Đào tạo Hà Nội, cũng đã từng làm việc với rất nhiều những cán bộ giáo dục tôi kính trọng. Nhưng chỉ có hai người tôi thực sự tôn kính là bậc thầy của cải cách giáo dục. Một là Thầy Trần Ngoạn – hiệu trưởng đầu tiên của trường vừa học vừa làm đầu tiên: Trường Thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa Hòa Bình. Người đã dìu dắt tôi nửa chặng đường đầu. Hai là Thầy Văn Như Cương – hiệu trưởng đầu tiên của trường THDL đầu tiên: Trường Lương Thế Vinh – người dìu dắt tôi đoạn đường tiếp theo.
Khi về Hà Nội, tôi nghĩ nơi có bề dày giáo dục hàng ngàn năm này dễ gì có ai dám thay đổi.
Nhưng tôi đã lầm! Giữa nơi có biết bao đường lối, chủ trương, phương pháp giáo dục kiên cố như thành trì; giữa lúc người ta còn đang loay hoay cải tiến trường công chưa ngã ngũ; có một ngôi trường mới ra đời: trường PTDL Lương Thế Vinh! Người ta bàn ra tán vào nhiều lắm. Còn tôi, như một quan sát viên không dễ tính, lặng lẽ chứng kiến bước đi của trường. Dẫu vậy, ngay từ những ngày đầu ấy, tôi đã hết sức khâm phục người sáng lập ra ngôi trường đó: không “đôi hồi”, “quảng cáo”, không lớn tiếng tuyên ngôn “thực nghiệm”, “cải cách”, “đổi mới” nọ kia. Anh cứ lẳng lặng làm, hì hục làm, và lôi kéo thầy trò toàn trường bằng tấm gương “miệng nói, tay làm” của chính mình. Thế mà, hơn tất cả các thực nghiệm này khác, Lương Thế Vinh tồn tại sừng sững!
Sau nhiều năm, trước khi về trường dạy học, tôi đã hiểu ra, anh thành công vì Anh là một nhà giáo dục thực tiễn. Thực tiễn (1), chứ không phải thực tế kinh nghiệm chủ nghĩa. Không! Chỉ đạo bất cứ hoạt động giáo dục nào của nhà trường, anh cũng có một cơ sở lí luận giáo dục khoa học đầy sáng tạo. Nhưng anh không lí luận suông, không tỏ ra “uyên bác”, mà biến lí luận thành chương trình hành động khoa học, hợp lí và thiết thực. Ví như, khi tôi ở Sở Giáo dục – Đào tạo về kiểm tra trường, tôi rất chú ý tìm hiểu chủ trương của anh: Chỉ đạo chuyên môn phải đảm bảo nguyên tắc giáo dục toàn diện; nhưng đồng thời phải linh hoạt trong dung lượng, độ đậm nhạt của nội dung kiến thức, thời gian thực hiện các bộ môn có sự linh hoạt hợp với phân phối thời gian trong năm học. Hồi đó tôi có dự giờ của một giáo viên dạy văn lớp 9. Tôi phát hiện anh thay đổi trật tự chương trình của Bộ (ở thời điểm ấy anh phải dạy thơ Việt Nam hiện đại, nhưng anh lại dạy truyện). Hỏi, thì anh giải thích anh đổi để phục vụ Tập làm văn tự sự. Lại hỏi, trường cho phép sao? Anh cho biết Lương Thế Vinh chỉ so chương trình vào giữa học kì và cuối học kì (thời điểm nhà trường kiểm tra chất lượng bộ môn chung), còn để giáo viên chủ chọn con đường đi tới đích hiệu quả nhất. Ngay lúc đó tôi đã nghĩ: Thật tuyệt! Khi nào có điều kiện tôi sẽ xin về đây dạy học!
(1) Thực tiễn: Hoạt động của con người, có sự thống nhất giữa lí luận và thực tế.
Thầy Cương, cô Oanh cùng các giáo viên trường THCS & THPT Lương Thế Vinh
Và cơ hội đó đã đến khi tôi được nghỉ hưu. Hơn mười lăm năm dạy học tại Lương Thế Vinh, tôi đã học được bao nhiêu đều từ người Thầy, người Anh cả của giáo viên toàn trường. Anh luôn dìu dắt chúng tôi yêu thương học sinh để giáo dục và dạy dỗ các em nên người. Và Anh là tấm gương tuyệt vời về mặt này. Đọc những “Bức thư gửi Thầy” của các em 9V2 viết hôm tiễn biệt thầy, tôi không cầm được nước mắt: “… Hàng nghìn con hạc chúng con gửi thầy, rồi bỗng một hôm chúng con nhìn lên tầng hai của trường, một ông Bụt hiền từ hiện ra tươi cười nhìn chúng con! … Lần đầu tiên con mới vào lớp sáu, Thầy đến với chúng con ở ngôi trường bé nhỏ bên 18 Khương Thượng: Ôi! Thầy thật giống với Bác Hồ! … Con không được trực tiếp học Thầy, nhưng những công thức toán hình của Thầy con không bao giờ quên! … Mỗi nốt nhạc, mỗi lời ca thẫm đẫm nước mắt chúng con. Sân trường đang u ám, bỗng những tia nắng rọi xuống, con biết đó là Thầy, là ông Tiên của chúng con đang gửi lời an ủi những đứa cháu bé nhỏ của mình: “Các con đừng khóc! Thầy không bao giờ xa các con!” Con chạy theo tia nắng: “Thầy đừng đi! Thầy ơi!” … Lúc xe linh cữu của Thầy từ từ rời xa cổng trường, các cô giáo chạy theo, nước mắt giàn dụa. Con ước gì nước mắt của các cô giáo và chúng con níu được Thầy ở lại …”
Tôi tâm sự với các em mới biết mỗi em in đậm một hình ảnh Thầy trong tim vì các em luôn nhớ hôm các em 6V2 vào trường thầy Văn Như Cương đến thăm các em. Các em được nói chuyện với Thầy như các đứa cháu nói chuyện với ông nội:
- Các con ăn cơm trưa có ngon miệng không?
- Ngon lắm Thầy ạ. Nhưng …
- Sao? … Con cứ nói Thầy nghe nào… Sao, … hay con nói thầm vào tai thầy vậy,
- Con hơi đói! _ Em cố kiễng chân áp vào tai thầy. Bỗng em hơi sợ vì lỡ lời.
- Thế à _ thầy cũng thầm thì _ để Thầy nói các cô tăng lượng suất ăn con nhé!
Em cứ tưởng Thầy nhiều việc lo cho trường thì Thầy có nhớ không. Nhưng thật bất ngờ. Trưa hôm sau chúng em được ăn no hơn.
Cô xin lỗi các con, cô đã sai khi nghĩ các con lớp 6 ăn ít hơn các con lớp 7. Hôm qua, Thầy Cương đã bảo các cô rằng các con lớp 6 ăn khỏe không thua các con lớp trên đấy!
Chao ôi! Anh yêu thương học sinh biết bao!
Còn với chúng tôi, những người đứng lớp, anh căn dặn: Không có học sinh yếu kém, chỉ có những em chưa chăm, hoặc do các em chưa được rèn cách học, cách tư duy chu đáo, phải thật kiên nhẫn và sáng tạo trong cách dạy.
Năm tôi mới vào trường dạy lớp 9, anh giáo viên dạy Toán lớp tôi luôn ca ngợi những cuốn sách Bài tập Toán của Thầy Văn Như Cương. Anh giáo viên Toán ấy rất tâm đắc cách ra bài tập không hiểm hóc mà luôn kích thích tư duy; nhất là cách Thầy Cương hướng dẫn giải bài tập: Không bao giờ giải sẵn, Thầy Cương có những cách gợi mở thật khéo, luôn có tác dụng dẫn dắt học sinh tự khám phá. Thật là một Thầy giáo trí tuệ uyên thâm và có một bề dày thực tiễn giảng dạy đầy sáng tạo! Anh giáo viên Toán thốt lên như vậy! Điều đó khiến tôi suy nghĩ rất nhiều.
Dạo ấy tôi đang được tham gia biên soạn bộ Ngữ văn nâng cao cho lớp 6, 7, 8, 9. Trước khi về Sở Giáo dục – Đào tạo Hà Nội chỉ đạo Ngữ văn THCS, tôi vốn là một giáo viên THPT, do ở miền núi thiếu giáo viên, tôi cũng có dạy lớp 9. Tuy chỉ đạo Ngữ văn THCS ở Thành phố, tôi luôn nghiên cứu và dự giờ giáo viên giỏi cũng học được nhiều, nhưng vẫn không thể bằng học tập qua thực tiễn giảng dạy. Tôi bèn xin với Thầy Cương, cho tôi được dạy lớp 6 và được theo các em lên đến lớp 9. Anh cười và tán thành ngay: “Nên như vậy. Cô nên nhớ viết sách cho học sinh cũng là giảng dạy đó. Phải dạy giỏi mới viết tốt được. Dạy học sinh cũng như viết sách không bao giờ được làm thay học sinh, không được để học sinh “ăn sẵn”.
Như mỗi giáo viên, học sinh trường Lương Thế Vinh, kỉ niệm về Thầy Văn Như Cương thật không sao kể hết được. Tâm sự vài kỉ niệm nhỏ này về Anh, là tôi muốn tâm niệm rằng: Anh là tấm gương sáng về cải cách giáo dục, về tình thương yêu học sinh và vì thương yêu mà nghĩ nhiều cách giáo dục, giảng dạy và viết sách có hiệu quả.
Anh đã đi xa, nhưng sự nghiệp cải cách giáo dục Anh xây, phương pháp giảng dạy tiên tiến
Anh dạy, tình yêu thương học sinh Anh để lại, có bao giờ đi xa! Trường Lương Thế Vinh mãi mãi phát triển bền vững, Anh ạ!
Hà Nội, 0h10 phút ngày 9 tháng 11 năm 2017
Vũ Băng Tú, giáo viên
Trường THCS & THPT Lương Thế Vinh